Ở Úc, Mỹ, Canada học sinh được dạy phương pháp tranh luận (debate)
rất sớm ở trong trường. Có rất nhiều debate technics khác nhau, nhưng
điều tối kỵ (và được coi là "vô giáo dục/vô văn hóa") là kiểu "bỏ bóng đá người",
tức là thua lý, không thể tranh luận thẳng vào vấn đề và thay vào đó là
tấn công cá nhân người đang tranh luận với mình (đơn cử vụ mới nhất là
việc ông bầu Đức- HAGL tấn công cá nhân TS Alan Phan).
Gởi các bạn 1 bài viết hay & có nhiều điều để học hỏi
Tranh
luận có nghĩa là cùng bàn cãi có phân tích lí lẽ để tìm ra lẽ phải.
Tranh luận được xem là một nghệ thuật đã có từ rất xa xưa và rất phổ
biến trong cuộc sống hàng ngày. Tranh luận có thể diễn ra giữa 2 người, 3
người hay rất nhiều người ở giữa đời thực hay là trên mạng xã hội hoặc
diễn đàn. Bất cứ ai cũng có thể tham gia tranh luận nhưng không có nhiều
người biết cách tranh luận đúng. Có rất nhiều lỗi dễ mắc phải khi tranh
luận, dẫn đến kết cục là cãi nhau chứ không còn là tranh luận để tìm ra
lẽ phải nữa. Đặc biệt là đối với diễn đàn trực tuyến, một cộng động
thường có nhiều người tham gia và thảo luận, tranh luận nhiệt tình.
Tranh luận là bản chất vốn có của diễn đàn vì mục đích khi lập ra diễn
đàn chính là để trao đổi, thảo luận trình bày ý kiến, hiểu biết của mỗi
cá nhân,... và khi có những bất đồng, đó là lúc tranh luận xảy ra. Để
việc tranh luận có kết quả tích cực hơn, theo hướng có lợi cho cộng đồng
hơn, xin giới thiệu với các bạn bài viết của tác giả Bàn Tân Định về
"Văn hoá tranh luận và vấn đề nguỵ biện". Cùng xem để biết mình đã sai
lỗi nào khi tranh luận, làm thế nào để tranh luận theo hướng tích cực và
tránh một kết quả không tốt khi tranh luận.
VĂN HOÁ TRANH LUẬN VÀ VẤN ĐỀ NGUỴ BIỆN
Tranh
luận trên các diễn đàn công cộng là một hình thức trao đổi ý kiến không
thể thiếu được trong các thể chế dân chủ và văn minh. Ở nhiều nước Tây
phương, lưu lượng của những tranh luận cởi mở và nghiêm túc được xem là
một dấu hiệu của một xã hội lành mạnh. Nhưng thế nào là tranh luận
nghiêm túc? Nói một cách ngắn gọn, cũng như trong một cuộc đấu võ, một
tranh luận nghiêm túc là một cuộc tranh luận có qui tắc hẳn hoi, mà
trong đó người tham gia không được, hay cần phải tránh, phạm luật chơi.
Những qui tắc chung và căn bản là người tham gia chỉ phát biểu bằng cách
vận dụng những lí lẽ logic, với thái độ thành thật và cởi mở, chứ không
phát biểu theo cảm tính, lười biếng, hay biểu hiện một sự thiển cận,
đầu óc hẹp hòi. Để đạt những yêu cầu này, người tranh luận nghiêm túc
trước khi phát biểu hay đề xuất ý kiến, đưa ra lời bình phẩm của mình,
cần phải xem xét tất cả các trường hợp khả dĩ, phải cân nhắc những quan
điểm và những cách giải thích khác nhau, phải đánh giá ảnh hưởng của sự
chủ quan và cảm tính, phải chú tâm vào việc tìm sự thật hơn là muốn mình
đúng, sẵn sàng chấp nhận những quan điểm không được nhiều người ưa
chuộng, và phải ý thức được định kiến và chủ quan của chính mình. Khi
tranh luận phải nhất quán là chỉ xoay quanh chủ đề bàn luận, luận điểm
bàn luận chứ không đi lạc đề. Không nhằm vào cá nhân và bản thân của
người tham gia tranh luận.
Đó là những đòi hỏi khó khăn cho một
cuộc tranh luận nghiêm túc có ý nghĩa, và không phải ai cũng có khả năng
đạt được những yêu cầu này. Thành ra, không mấy ai ngạc nhiên khi thấy
có quá nhiều trường hợp chất lượng của cuộc tranh luận rất thấp. Chỉ cần
xem qua những lần tranh luận trên các đài truyền hình (ở Úc chẳng hạn),
người ta có thể thấy đó không phải là tranh luận, mà là những cuộc đụng
độ giũa các cá nhân tham gia tranh luận (nhất là các quan chức) thay vì
đương đầu với lí luận của người tranh luận. Ngoài ra, đối với một số
lớn chính trị gia, nghệ sĩ, và khoa học gia, được xuất hiện trên ti-vi
để bình luận về một câu chuyện nào đó là một cuộc dàn xếp, một lần đóng
kịch không hơn không kém. Nó là một kịch bản ngớ ngẩn đã được dàn xếp
sẵn. Ngớ ngẩn là vì người xuất hiện chẳng nói được gì cho đầy đủ, mà
cũng chẳng phân tích một vấn đề gì cho đến nơi đến chốn. Thực ra, họ
xuất hiện để được ghi nhận, để được [nói theo tiếng Anh] là “to be
seen”. Đối với các chính trị gia, nghệ sĩ, và khoa học gia loại này, “to
be seen” là một phương tiện sống còn của họ trong xã hội, là một cách
nói “Tôi vẫn còn đây”. Điều này có nghĩa là càng xuất hiện nhiều trên
ti-vi nhiều chừng nào càng đem lại lợi ích cá nhân cho họ. Thành ra,
ti-vi ngày nay đã trở thành một tấm gương cho những anh chàng bảnh trai
Narcissus hiện đại phô bày bộ mặt của họ, chứ không cống hiến gì nhiều
cho một xã hội dân chủ.
Mà cũng chẳng riêng gì ở Úc, tình trạng
nghèo nàn về tranh luận này đã và đang xảy ra ở Âu châu. Trong mấy tháng
gần đây, giới khoa học Âu châu đang lên cơn sốt “Holocaust” (cuộc tàn
sát người Do thái, trước và trong thế chiến thứ II). Bất cứ một nhà khoa
học nào, nghệ sĩ nào dám chất vấn những quan điểm “chính thống” về thực
phẩm, về bệnh AIDS, về cuộc xung đột ở Kosovo, về sự kiện hôm 11/9 ở
Mĩ, hay về môi trường đều bị dán cho một nhãn hiệu là bạn của Nazi. Giáo
sư Bjorn Lomborg mới lên tiếng chất vấn những con số thống kê về môi
trường liền bị gắn cho nhãn hiệu “giống như Nazi”. Những ai dám chất vấn
mối liên hệ giữa vi khuẩn HIV và bệnh AIDS liền bị tố cáo là “muốn cho
thế giới này có một Holocaust thứ hai”. Thật vậy, ở Âu châu ngày nay
xuất hiện một xu hướng mà những quan điểm đã được xem là “chính thống”
thì không ai được chất vấn. Cái xu hướng này nó đang ăn sâu vào xã hội
và giới truyền thông đến nổi một nhà trí thức Anh phải than phiền là nếu
không ngăn chận, nó có cơ đem xã hội Âu châu quay trở lại thời Trung
cổ, thời mà không ai dám chất vấn những gì Vatican phán.
Trong
cộng đồng người Việt, vấn đề này còn nghiêm trọng hơn. Rất nhiều trường
hợp, những cuộc tranh luận trong cộng đồng đã trở thành những cuộc chửi
lộn, mà trong đó người tham gia tha hồ vung vít, ném liệng vốn liếng chữ
nghĩa qua lại một cách hỗn độn, mà chẳng cần để ý đến logic hay các
nguyên tắc của tranh luận là gì. Hơn nữa, rất dễ dàng nhận thấy rằng
trong các cuộc tranh luận đó người ta nhắm vào mục tiêu là bản thân, cá
nhân của người tranh luận chứ không nhắm vào quan điểm và lí lẽ của
người đó. Một đơn cử, mới đây, những bài viết liên quan đến biên giới,
thay vì bàn luận thẳng vào vấn đề, người ta có khuynh hướng công kích
vào cá nhân người viết. Những danh từ, tính từ hết sức vô văn hóa được
mang ra dùng cho tác giả. Thay vì dùng những chữ như Holocaust, Nazi,
người Việt có những cụm từ đánh vào chỗ nhạy cảm của quần chúng. Trong
hầu như những tranh luận liên quan đến Việt Nam, nhiều người cố tìm hay
tạo cho mình một vị trí đạo đức cao cả bằng cách gắn cho đối phương một
trong hai cụm từ trên, một thủ đoạn có khả năng làm cho một cuộc tranh
luận trở nên một cuộc ẩu đã ngôn từ đinh tai nhức óc. Tại sao anh dám
nói chúng tôi sai? Anh là một tên phản bội dân tộc. Tức là, thay vì
tranh luận thẳng vào vấn đề, người ta tìm cách gắn cho đối phương một
nhãn hiệu, và từ đó làm lu mờ đi quan điểm của họ.
Thực ra, đó là
một hình thức ngụy biện, một lỗi lầm cơ bản nhưng nghiêm trọng trong
tranh luận. Nói một cách đơn giản, ngụy biện là những nhầm lẫn trong lí
luận và suy luận. Ngụy biện khác với logic. Logic, nói một cách ngắn gọn
trong trường hợp này, là những luật lệ hay qui tắc quản lí tính nhất
quán trong việc sử dụng ngôn ngữ. Từ nhiều thế kỉ qua, giới triết học
Tây phương đã bỏ khá nhiều công sức để phân biệt thế nào là logic và thế
nào là ngụy biện. Aristotle là một nhà logic học đầu tiên có công phát
triển các qui tắc và hệ thống suy luận. Trong quá trình làm việc, ông
phát hiện ra nhiều lỗi lầm mà sau này người ta quen gọi là những “ngụy
biện.” Mặc dù Aristotle là một nhà nhà logic học đầu tiên có công liệt
kê và phân loại những loại ngụy biện, thầy của ông (Plato) mới xứng đáng
được vinh danh như là một nhà triết học đầu tiên đã có công sưu tầm
những ví dụ về ngụy biện. Kể từ khi Plato và Aristotle, đã có khá nhiều
nhà triết học và logic học như John Locke, John Stuart Mill, Jeremy
Bentham, và Arthur Schopenhauer cũng có nhiều cống hiến quan trọng trong
việc nghiên cứu về ngụy biện.
Thực ra, nhận dạng ngụy biện không
phải là một việc làm khó khăn. Nói chung chỉ với một lương năng bình
dân, người ta có thể phân biệt một phát biểu mang tính ngụy biện với một
phát biểu logic. Tuy nhiên, cũng có nhiều dạng thức ngụy biện mà vẻ bề
ngoài hay mới nghe qua thì rất logic, nhưng thực chất là phi logic.
Những loại ngụy biện núp dưới hình thức “khoa học” này không dễ nhận
dạng nếu người đối thoại thiếu kiến thức về logic học hay thờ ơ với lí
lẽ. Do đó, một điều quan trọng trong tranh luận là cần phải phát hiện và
nhận dạng những hình thức ngụy biện, và quan trọng hơn, cần phải hiểu
tại sao chúng sai. Có thể phân loại ngụy biện thành nhiều nhóm khác nhau
liên quan đến việc đánh lạc vấn đề, lợi dụng cảm tính, thay đổi chủ đề,
nhầm lẫn trong thuật qui nạp, lí luận nhập nhằng, phi logic, và sai
phạm trù. Trong khuôn khổ giới hạn của bài viết, người viết bài này
không có tham vọng trình bày tất cả những loại ngụy biện một cách chi
tiết (vì việc này đã được hệ thống hóa trong nhiều sách về logic học),
mà chỉ muốn liệt kê ra những loại ngụy biện thường hay gặp trong báo chí
và truyền thông, hầu giúp bạn đọc có thể nhận dạng ra chân-giả.
Nhóm 1. Thay đổi chủ đề
1.
Công kích cá nhân (ad hominem). Đây là một loại ngụy biện phổ biến
nhất, nguy hiểm nhất, và có “công hiệu” nhất, vì nó tấn công vào cá nhân
của người tranh luận, và tìm cách trốn tránh luận điểm của cá nhân đó.
Hình thức ngụy biện này thường xuất hiện dưới dạng: Ông A phát biểu về
một vấn đề; ông B tấn công vào cá nhân ông A, và làm cho người ta nghi
ngờ luận điểm của ông A. Tuy nhiên, có thể không có mối liên hệ nào giữa
cá nhân và luận điểm của ông A.
Có hai hình thức thuộc loại ngụy
biện này. Thứ nhất là dưới hình thức sỉ nhục, hay chửi rủa. Khi bất
đồng ý kiến, người ngụy biện chỉ việc công kích vào cá nhân của người
phát biểu. Chẳng hạn như “Ông nói là những người vô thần có đạo đức, vậy
mà chính ông là người từng li dị với vợ con,” hay “Ông ta đang làm ăn
với phía Việt Nam, tất nhiên ông ta phải nói tốt về Việt Nam”. Đây là
một ngụy biện, bởi vì sự thật của phát biểu không tùy thuộc vào cá nhân
của người phát biểu mà là logic của lời phát biểu. Một cách ngụy biện
khác cũng dựa vào cách nói này là dùng một nhân vật khác, chẳng hạn như
“Vậy thì chúng ta hãy đóng cửa nhà thờ cả đi. Hitler đã chắc hẳn sẽ đồng
ý với anh.”
Hình thức ngụy biện thứ hai trong loại này là người ngụy
biện cố gắng thuyết phục người đối thoại chấp nhận luận điểm của họ
bằng cách đề cập đến hoàn cảnh của cá nhân đó. Ví dụ: “Anh nói là không
nên uống rượu, vậy mà anh đã từng ngất ngưởng cả năm qua.”
Cũng
nằm trong loại ngụy biện này là thói dùng một đặc điểm của một vật thể
nào đó để ứng dụng cho một cá nhân hay một vật thể khác. Ví dụ: “Anh
theo học trong một trường dành cho con nhà giàu. Do đó, anh là một người
giàu có, anh không hiểu gì về sự nghèo khổ.”
2. Lợi dụng quyền
lực (ad verecundiam). Đây là loại ngụy biện dùng những nhân vật nổi
tiếng hay được nhiều người ái mộ để tìm sự ủng hộ cho luận điểm của
mình. Chẳng hạn như “Isaac Newton là một thiên tài, và ông tin vào
Thượng đế.” Đây không hẳn là một lí lẽ hư, nó có thể có liên hệ đến một
nhân vật có uy tín trong một lĩnh vực nào đó, nếu người ta thảo luận về
lĩnh vực đó. Chẳng hạn như phải phân biệt giữa hai phát biểu “Ông
Hawking (Stephen Hawking, nhà Vật lí Lí thuyết đương đại nổi tiếng người
Anh) kết luận rằng những lỗ đen (black holes) có thể phát ra phóng xạ”,
và “Ông Penrose cho rằng xây dựng một cái máy điện toán thông minh là
một điều có thể làm được.” Nếu ông Hawking là một nhà vật lí thì chúng
ta có thể tin vào ý kiến của ông về những lỗ đen. Nhưng nếu ông Penrose
là một nhà toán học, thì chúng ta có quyền chất vấn ông ta có đủ thẩm
quyền để bàn về đề tài thông minh nhân tạo hay không?
3. Lợi dụng
quyền lực nặc danh. Trong trường hợp này, người ngụy biện không nêu
danh tính người có thẩm quyền, và vì không ai biết tên người có thẩm
quyền nên không ai có thể kiểm chứng sự chính xác của lời phát biểu. Một
loại ngụy biện khác có quan hệ với loại này là dùng lời đồn đại để làm
cơ sở lập luận. Ví dụ như “Một viên chức tình báo trong chính phủ Úc cho
rằng chính anh từng hoạt động cho địch.”
4. Lợi dụng tác phong.
Loại ngụy biện này dùng tác phong hay cách làm việc hay một đặc tính nào
đó của đối tượng để cố thuyết phục về sự hợp lí của phát biểu. Tiêu
biểu cho loại ngụy biện này là những phát biểu như “Nixon thất cử vì ông
ta thường hay ra mồ hôi trên trán,” hay “Tại sao anh không nghe theo
lời khuyên của anh chàng ăn mặc bảnh bao đó?” Thực ra, “bảnh bao” và “mồ
hôi trên trán” chẳng có dính dáng gì đến vấn đề đang bàn thảo.
5.
Luận điệu cá trích. Loại ngụy biện này thường hay được ứng dụng khi một
người nào đó đưa vào những phát biểu không dính dáng gì đến vấn đề đang
tranh luận, nhằm mục đích đánh lạc hướng vấn đề. Ví dụ: “Anh có thể nói
rằng tử hình là một hình thức không có hiệu quả trong việc chống lại
tội phạm, nhưng còn nạn nhân của tội phạm thì sao? Gia đình của nạn nhân
sẽ nghĩ gì khi họ thấy tên sát nhân người thân của họ bị giam giữ trong
nhà tù bằng đồng tiền của chính họ. Họ có nên nuôi dưỡng những tên sát
nhân như thế không?”
6. Luận điệu ngược ngạo. Bằng chứng luôn
luôn là gánh nặng của người phát biểu. Do đó, tìm cách di chuyển gánh
nặng đó cho một người khác là một thủ thuật giới ngụy biện hay dùng.
Chẳng hạn như trong câu này “Được rồi, vậy anh không tin là có người
ngoài hành tinh đã từng chi phối đến chính phủ Mỹ, nhưng anh có thể
chứng minh điều đó không,” đáng lẽ người phát biểu phải chứng minh,
nhưng công việc đó lại được chuyển cho người đối thoại!
Nhóm 2. Lợi dụng cảm tính và đám đông
7.
Dựa vào bạo lực (ad baculum). Ngụy biện dựa vào bạo lực thực chất là
một sự đe dọa, nhằm mục đích gây áp lực cho người đối thoại phải chấp
nhận một kết luận nào đó. Loại ngụy biện này thưởng được giới chính
khách dùng, và có thể tóm gọn bằng một câu “chân lí thuộc về kẻ mạnh”.
Sự đe dọa không hẳn chỉ xuất phát từ người phát biểu, mà có thể từ một
người khác. Ví dụ như “Những ai không tin vào Kinh thánh sẽ bị thiêu
cháy dưới đáy địa ngục”, hay “Thôi được rồi, tôi đã biết số điện thoại
của anh và biết anh đang ở đâu. À, tôi có nói cho anh biết là tôi có
giấy phép mang súng chưa nhỉ?”
8. Lợi dụng lòng thương hại (ad
misericordiam). Đây là một loại ngụy biện dựa vào lòng trắc ẩn của người
đối thoại để người đối thoại chấp nhận lí lẽ của mình. Ví dụ như “Anh
ấy không có giết người bằng búa. Làm ơn đừng tuyên án anh ấy có tội, anh
ấy đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng tinh thần,” hay “Tôi hi vọng
anh sẽ chấp nhận đề nghị này, chúng ta đã tiêu ra ba tháng nay rồi
đấy.”
9. Lợi dụng hậu quả (ad consequentiam). Ngụy biện loại này
thường được biểu hiện qua cách phát biểu “A hàm ý B, B là sự thật, do đó
A là sự thật”. Ví dụ: “Nếu vũ trụ được một đấng chí tôn thượng đế tạo
nên, chúng ta có thể thấy những hiện tượng được tổ chức một cách thứ tự.
Và hiện tượng chung quanh chúng ta quả rất thứ tự, vậy đấng chí tôn
thượng đế chính là người tạo nên vũ trụ,” hay “Anh phải tin vào Thượng
đế, chứ nếu không cuộc đời này sẽ chẳng có ý nghĩa” (hay là nói một cách
ngược lại: cuộc sống này chẳng có ý nghĩa gì nếu Thượng đế hiện hữu!)
10.
Lạm dụng chữ nghĩa. Đây là một loại ngụy biện dựa vào dùng những chữ
mang cảm tính cao để gắn một giá trị đạo đức vào một đề nghị hay một câu
phát biểu. Chẳng hạn như trong câu “Bất cứ một người có lương tri nào
cũng phải đồng ý rằng về Việt Nam ăn Tết là làm lợi cho cộng sản,” chữ
“lương tri” được cài vào nhằm cho người đối thoại phải nghiêng theo
những người có lương tri.
11. Dựa vào quần chúng (ad numerum).
Loại ngụy biện này tin rằng nếu có nhiều người ủng hộ một đề nghị nào
đó, thì đề nghị đó phải đúng. Ví dụ như “Đại đa số người dân trong cộng
đồng ủng hộ ông Minh, vậy phát biểu của ông Minh ắt phải đúng.” Liên hệ
với loại ngụy biện này là hình thức tranh thủ sự ủng hộ của đám đông để
cố gắng cho thấy luận điểm của mình là đúng. Ví dụ: “Ai cũng biết Bộ Y
tế làm là đúng, sao anh dám nói là sai? Hay là anh muốn nói chúng tôi là
những kẻ ngu xuẩn?”
Nhóm 3. Làm lạc hướng vấn đề
12. Lí
lẽ chẻ đôi. Loại ngụy biện này thường phân định một vấn đề thành hai giá
trị: trắng và đen, bạn và thù, có và không, v.v.. dù trong thực tế, có
hơn hai lựa chọn. Chẳng hạn như “Hoặc là anh hợp tác với tôi hay là anh
chống tôi, anh chọn hướng nào, yes hay là no?”, hay “Đối với Mỹ, anh chỉ
có hai lựa chọn: thương hay ghét, trả lời đi!”
13. Lí lẽ ngờ
nghệch (ad ignorantiam). Loại ngụy biện này, như tên gọi ám chỉ, xuất
phát từ sự ngờ nghệch. Một trong những cách nói thông thường nhất trong
loại ngụy biện này mà giới ngụy biện dùng là nếu một điều gì đó chưa
được chứng minh là sai (hay giả) thì điều đó là đúng (hay thật). Ví dụ:
“Bởi vì các nhà khoa học chưa chứng minh dioxin có thể gây ra dị thai,
do đó dioxin không thể gây ra dị thai,” hay kiểu lí luận của John Howard
“Hiến pháp Úc đã tồn tại cả trăm năm nay, và xã hội ổn định, không có
lí do gì phải thay đổi hiến pháp”.
14. Lí luận lươn trạch. Loại
ngụy biện này cho rằng nếu một sự kiện xảy ra, các sự kiện có hại khác
sẽ xảy ra. Chẳng hạn như “Nếu chúng ta hợp pháp hóa marijuana, công
chúng sẽ bắt đầu hút á phiện, và chúng ta cũng sẽ phải hợp pháp hóa á
phiện. Rồi chúng ta sẽ là một quốc gia với những người ăn bám vào xã
hội. Do đó, chúng ta không thể hợp pháp hóa á marijuana”. Hay một đoạn
ví dụ khác:” Tiếc thay một cuộc cải cách về kinh tế, bình bị, tài chánh,
xã hội, nông nghiệp như vậy, đang trên đường thành công rực rỡ: bị tan
vỡ, bị huỷ bỏ chỉ vì tham vọng đánh Đại việt của Vương An Thạch. Mà đau
đớn biết bao, khi người phá vỡ chỉ là một thiếu phụ Việt ở tuổi ba mươi.
Giá như Thạch không chủ trương Nam xâm, chỉ cần mười năm nữa, toàn bộ
xã hội Trung quốc thay đổi; rồi với cái đà đó, thì Trung quốc sẽ là nước
hùng mạnh vô song, e rằng cứ muôn đời mặt trời vẫn nở phương Đông chứ
không ngả về Tây như hồi thế kỷ 18 cho đến nay bao giờ.”
15. Mệnh
đề rời rạc. Đây là loại ngụy biện dùng hai (hay nhiều hơn hai) mệnh đề
chẳng dính dáng gì với nhau để làm thành một phát biểu hay kết luận. Ví
dụ: “Anh ủng hộ tự do dân chủ và quyền mang vũ khí hay không?” hay “Anh
đã ngưng làm ăn trái phép chưa?” Câu hỏi sau thực ra hỏi hai vấn đề “Anh
từng làm ăn trái phép?” và “Anh đã ngừng hoạt động hay chưa?”
16.
Đơn giản hóa vấn đề. Đây là một loại ngụy biện mà người phát biểu cố
tình biến một quan niệm trừu tượng thành một điều cụ thể để bắt lấy thế
thượng phong trong đối thoại (nhưng là ngụy biện). Ví dụ: “Tôi để ý thấy
anh mô tả ông ta là một người quỉ quyệt. Vậy tôi hỏi anh cái “quỉ
quyệt” đó nó nằm ở đâu trong bộ não? Anh không chỉ ra được cho tôi; do
đó, tôi có thể nói cái quỉ quyệt không có thực.”
Nhóm 4. Qui nạp sai
17.
Khái quát hóa vội vã. Loại ngụy biện này cũng khá phổ biến. Nó dùng một
ví dụ hay trường hợp nhỏ và từ đó khái quát hóa cho một cộng đồng.
Chẳng hạn như “Jim Baker là một tay đạo đức giả. Do đó, các tín đồ Cơ
đốc giáo là giả dối.”
18. Khái quát hóa không đúng chỗ. Đây là
loại ngụy biện mà người sử dụng chúng thường áp dụng một qui luật chung
cho một tình huống hay một cá nhân. Chẳng hạn như “Người Phật giáo là vô
thần. Anh là phật tử, vậy anh chắc chắn là một người vô thần.”
19.
Kéo dài tính tương đồng. Trong loại ngụy biện này, người dùng nó đề
nghị một điều lệ chung chung, rồi ứng dụng nó cho mọi trường hợp và cá
nhân. Ví dụ: “Tôi tin rằng chống luật pháp bằng cách phạm luật pháp là
một điều sai trái”, hay “Nhưng quan điểm đó ghê tởm lắm, vì nó ám chỉ
rằng anh sẽ không ủng hộ Martin Luther King,” hay “Anh muốn nói rằng
luật về mật mã cũng có tầm quan trọng tương đương với phong trào giải
phóng người da đen hay sao? Sao anh dám nói thế?”
20. Lí lẽ quanh
co. Loại ngụy biện này thường lẩn quẩn trong vài giả định và kết luận.
Chẳng hạn như “Những người đồng tính luyến ái nhất định không thể nắm
chính quyền. Do đó, phải tống khứ những viên chức chính phủ đồng tính
luyến ái. Vì thế, những người đồng tính luyến ái sẽ làm mọi cách để dấu
diếm hành tung của họ, và họ có nguy cơ bị tống tiền. Do vậy, những
người đồng tính luyến ái không được giữa chức vụ gì trong chính phủ.”
Tức là trong một lí giải như thế, cả hai giả thuyết và kết luận đều
giống nhau.
21. Đảo ngược điều kiện. Loại ngụy biện này thường
được biểu hiện qua hình thức “Nếu A xảy ra thì B sẽ xảy ra, do đó, nếu B
xảy ra thì A sẽ xảy ra.” Ví dụ: “Nếu tiêu chuẩn giáo dục bị hạ thấp,
chất lượng tranh luận sẽ bị tồi đi. Do đó, nếu chúng ta thấy chất lượng
tranh luận suy đồi trong những năm sắp đến, thì điều đó cho thấy tiêu
chuẩn giáo dục của ta bị xuống cấp.”
22. Lợi dụng rủi ro. Ngụy
biện này thường dùng một qui luật chung và áp dụng nó cho một trường hợp
cá biệt. Ví dụ: “Luật giao thông không cho anh chạy quá 50 km/h. Cho dù
cha anh sắp chết anh cũng không được chạy quá tốc độ đó.”
23.
Lợi dụng trường hợp cá biệt. Ngụy biện này thường dùng một trường hợp cá
biệt để đem ra ứng dụng cho một đám đông. Ví dụ: “Chúng ta cho phép
bệnh nhân sắp chết dùng á phiện, chúng ta nên cho phép mọi người dùng á
phiện.”
24. Kết luận lạc đề. Loại ngụy biện này thường xuất hiện
khi một kết luận chẳng dính dáng gì đến lí lẽ mà người biện luận trình
bày. Một ví dụ tiêu biểu cho trường hợp ngụy biện này là: “Độ nhiễm
arsenic trong nước ở Việt Nam chưa cao và còn trong mức độ cho phép. Dữ
kiện của Bangladesh cho thấy tình trạng nhiễm arsenic ở Việt Nam rất
trầm trọng.”
25. Ngụy biện rơm. Loại ngụy biện này cố tình xuyên
tạc, bóp méo quan điểm hay phát biểu của người khác, để làm luận điểm
tấn công. Đây là một ngụy biện, vì nó không đương đầu với cái lí lẽ đang
bàn. Chẳng hạn như: “Chúng ta nên ủng hộ chế độ cưỡng bách quân dịch.
Người ta không thích tòng quân vì họ không muốn cuộc sống bị đảo lộn.
Nhưng họ cần nhận thức rằng có nhiều điều quan trọng hơn tiện nghi trong
cuộc sống.”
Nhóm 5. Nguyên nhân giả
26. “Post hoc”. Loại
ngụy biện này phát biểu rằng hai sự kiện xảy ra, một trước và một sau,
có quan hệ với nhau như nguyên nhân và hậu quả. Ví dụ: “Liên Xô sụp đổ
sau khi nhà nước theo chủ nghĩa vô thần. Do đó, chúng ta phải từ bỏ chủ
nghĩa vô thần để khỏi bị suy sụp.”
27. Ảnh hưởng liên đới. Một sự
kiện được cho là có ảnh hưởng đến một sự kiện khác, nhưng thực chất thì
cả hai sự kiện đều có cùng một nguyên nhân. Đây cũng chính là một
trường hợp ngụy biện dưới dạng “post hoc”. Ví dụ: “Chúng ta đang chứng
kiến một tình trạng thất nghiệp rất cao, vì do thiếu nhu cầu của người
tiêu thụ.” (Nhưng có thể cả hai sự kiện có nguyên nhân từ tiền lời quá
cao.)
28. Ảnh hưởng không đáng kể. Đây là một loại ngụy biện mang
tính phóng đại từ một ảnh hưởng rất nhỏ. Chẳng hạn như “Hút thuốc gây
ra ô nhiễm môi trường ở Sydney” là một phát biểu đúng, nhưng ảnh hưởng
của thuốc lá đến môi trường rất khiêm tốn khi so với ảnh hưởng của khói
xe và các hãng xưởng.
29. Ảnh hưởng ngược chiều. Mối quan hệ giữa
nguyên nhân và hậu quả bị đảo ngược chiều để tìm đến một kết luận mang
tính ngụy biện. Ví dụ: “Ung thư gây ra thói quen hút thuốc lá”.
30.
Nguyên nhân phức tạp. Một sự kiện xảy ra có thể do nhiều nguyên nhân
khác nhau, nhưng người ngụy biện có thể đơn giản hóa thành một liên hệ
đơn giản. Chẳng hạn như “Tai nạn xe cộ là do đường xá xấu” có thể đúng,
nhưng tai nạn cũng có thể do người lái xe ẩu trong một điều kiện xấu.
31.
Nguyên nhân sai (Non causa pro causa). Loại ngụy biện này xảy ra khi
một điều nào đó được cho là nguyên nhân của một sự kiện, nhưng nó chưa
thực sự được chứng minh là nguyên nhân. Ví dụ: “Tôi uống một viên
aspirin và cầu nguyện thượng đế, và tôi không còn bị nhức đầu. Như vậy
thượng đế đã chữa trị tôi khỏi nhức đầu.”
Nhóm 6. Nhập nhằng
32.
Lí lẽ mơ hồ. Dùng những chữ và lí lẽ mơ hồ, tối nghĩa là một hình thức
ngụy biện, nhất là khi một chữ hay câu phát biểu được dùng với hai (hay
nhiều hơn hai) ý nghĩa khác nhau. Ví dụ, chữ “miễn phí” trong câu sau
đây có thể có nhiều nghĩa khác nhau: “Có loại nhu liệu nào rẻ hơn nhu
liệu miễn phí? Nhưng để duy trì tình trạng miễn phí, chúng ta cần phải
có một hệ thống đăng kí và cung cấp giấy phép cho người dùng.” Một ví dụ
khác về cách nói lập lờ là “Các hành động hình sự là bất hợp pháp, và
tất cả các phiên tòa xử tội giết người là hành động hình sự, vì thế tất
cả các phiên tòa này bất hợp pháp”.
33. Chơi chữ (Amphiboly).
Ngụy biện bằng chơi chữ dựa vào những giả thuyết mơ hồ, nhập nhằng, do
bất cẩn thận hay cách phát biểu sai văn phạm. Chẳng hạn như một phát
biểu kiểu như “Giả thuyết: tin vào Thượng đế sẽ lấp đi khoảng trống tinh
thần” là ngụy biện, vì người “lấp đi khoảng trống tinh thần” là một
điều trừu tượng, ai muốn hiểu sao thì hiểu.
34. Trọng âm
(accent). Đây là một hình thức ngụy biện bằng cách dùng thay đổi ý nghĩa
của một câu văn qua nhấn mạnh. Ví dụ như câu phát biểu “Chúng ta không
nên nói xấu về bạn bè” khác với “Chúng ta không nên nói xấu về bạn bè”
chỉ ở chỗ nhấn mạnh (gạch dưới). Người thờ ơ có thể hiểu sai điểm nhấn
mạnh của câu phát biểu.
Nhóm 7. Phạm trù sai
35. Hỗn hợp.
Loại ngụy biện này thường dùng những đặc tính bề ngoài để suy luận cho
một điều gì cá biệt. Ví dụ: “Xe đạp được làm bằng những dụng cụ nhẹ kí,
do đó, xe đạp rất nhẹ”, hay “Xe hơi dùng ít xăng dầu và không gây ra ô
nhiễm môi trường bằng xe bus. Do đó, xe hơi không gây hại cho môi trường
bằng tác hại của xe bus.”
36. Tùy tiện, phi thể thức (ad hoc).
Giải thích và lí lẽ là hai điều khác nhau. Nếu muốn xác minh A, và dùng B
làm bằng cớ, thì câu phát biểu “A xảy ra bởi vì B xảy ra” là một lí lẽ.
Tuy nhiên, nếu muốn xác minh một sự thật về B, thì câu phát biểu “A xảy
ra bởi vì B xảy ra” không phải là một lí lẽ mà là một lời giải thích.
Ngụy biện theo kiểu phi thể thức là hình thức dùng giải thích sau khi đã
có sự thật mà sự thật không ứng dụng vào một bối cảnh khác. Thông
thường ngụy biện phi thể thức được khoác vào chiếc áo lí lẽ. Chẳng hạn
như nếu chúng ta giả định rằng Thượng đế đối xử công bằng với mọi người,
thì những phát biểu sau đây là những lời giải thích phi thể thức: “Tôi
mới hết bệnh ung thư”, “Cầu nguyện với Thượng đế đi, Ngài là đấng toàn
năng”, “Nhưng Ngài có chữa trị cho những bệnh nhân ung thư khác không”,
“À, Thượng đế rất huyền bí.”
Nhóm 8. Phi logic (non sequitur) và nhầm lẫn trong tam đoạn luận
37.
Phi logic. Ngụy biện phi logic thường xảy ra trong trường hợp một lí lẽ
mà kết luận được rút ra từ những tiêu đề không dính dáng gì với nhau.
Chẳng hạn như “Người Ai Cập đã từng làm nhiều khai quật để xây dựng
những kim tự tháp, họ chắc chắn phải rất thạo về cổ sinh vật học.”
38.
Loại bỏ tiền đề. Ngụy biện loại này thường xảy ra dưới hình thức “nếu A
thì B, không phải A thì không phải B.” Ví dụ: “Nếu tôi ở Sài Gòn thì
tôi đang ở Việt Nam. Tôi hiện không ở Sài Gòn, do đó, tôi không ở Việt
Nam”.
39. Giả định hư. Đây là một loại ngụy biện bằng cách dùng
kỹ thuật phỏng vấn. Một trường hợp cổ điển là “Ông đã ngưng đánh vợ
chưa?” Tức là một câu hỏi với một giả định rằng người được hỏi từng hành
hung vợ. Đây là một mẹo mà giới luật sư thường hay dùng trong thẩm vấn.
“Ông dấu tiền ăn cắp đó ở đâu?” Giới chính khách cũng thích mẹo này,
đại khái như “Bao giờ thì nhóm EU này sẽ không còn xâm phạm vào công
việc của chúng ta?”
40. Ngụy biện bốn ngữ. ( Một tiêu chuẩn của
tam đoạn luận gồm có 3 chữ). Ví dụ như trong câu phát biểu “Tất cả chó
là thú vật, và tất cả mèo là loài động vật có vú, do đó tất cả chó là
loài động vật có vú,” có bốn chữ: chó, mèo, động vật, và động vật có vú.
41.
Đứt đoạn. Hai sự vật riêng biệt được xem là có liên hệ nhau nếu chúng
có chung đặc tính. Người ngụy biện lợi dụng chữ giữa của một phát biểu
để đưa đến một kết luận sai. Chẳng hạn như trong câu “Tất cả người Nga
là nhà cách mạng, và tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ cũng
là nhà cách mạng, do đó, tất cả những người theo chủ nghĩa vô chính phủ
là người Nga,” chữ chính giữa là “nhà cách mạng”. Nhưng kết luận này
sai, vì dù những người theo chủ nghĩa vô chính phủ và người Nga là những
người cách mạng, nhưng họ có thể là hai nhóm cách mạng khác nhau.
Nhóm 9. Các nhầm lẫn khác
42.
Dẫn chứng bằng giai thoại. Một trong những ngụy biện phổ biến nhất và
đơn giản nhất là dựa vào những câu chuyện có tính vụn vặt, hay giai
thoại. Chẳng hạn như “Có hàng khối bằng chứng cho thấy thượng đế hiện
hữu và vẫn ban phép mầu hàng ngày. Mới tuần rồi đây, tôi có đọc được một
câu chuyện về một cô gái sắp chết vì ung thư, cả gia đình cô đi cầu
nguyện trong nhà thờ, và chỉ vài ngày sau cô hết bệnh.” Dùng kinh nghiệm
cá nhân để minh họa cho một luận điểm là một điều hoàn toàn hợp lí,
nhưng dùng những giai thoại như thế sẽ chẳng chứng minh gì. Một anh bạn
có thể cho rằng anh từng gặp Elvis ở một siêu thị nào đó, nhưng những
người chưa gặp Elvis bao giờ thì cần nhiều bằng chứng xác thực hơn.
43.
Lợi dụng cổ tích. Đây là một loại ngụy biện cho rằng những gì đúng hay
tốt chỉ đơn giản vì chúng là cổ xưa, và những người theo cách ngụy biện
này thường nói “hồi nào đến giờ ai cũng vậy.” Chẳng hạn như “Hàng trăm
năm nay, Úc chịu dưới sự cai trị của Hoàng gia Anh, và là một nước thịnh
vượng. Một thể chế tồn tại lâu dài như thế ắt phải là một thể chế ưu
việt.”
44. Dựa vào cái mới (ad novitatem). Ngược lại với loại
ngụy biện dựa vào cái cũ, ngụy biện dựa vào cái mới cho rằng một điều gì
đó tốt hơn và đúng hơn đơn giản chỉ vì nó mới hơn cái khác. “Windows
2000 phải tốt hơn Windows 95, Windows 2000 mới được thiết kế lại năm
ngoái.”
45. Lí lẽ của đồng tiền. Loại ngụy biện này thường dựa
vào một niềm tin duy nhất rằng đồng tiền là một tiêu chuẩn của sự đúng
đắn. Những người có nhiều tiến có khả năng đúng hơn những người ít tiền.
Chẳng hạn như “Nhu liệu của hãng Microsoft đương nhiên là tốt hơn; nếu
không thì làm sao Bill Gates có thể trở nên tỉ phú như thế”.
46.
Dựa vào cái nghèo. Ngược lại với ngụy biện dựa vào sự giàu có, có một
loại ngụy biện khác dựa vào sự nghèo khổ. Chẳng hạn như “Các vị sư có
khả năng hiểu thấu được ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì họ từ bỏ mọi xa
hoa của cuộc sống.”
47. Điệp khúc (ad nauseam). Loại ngụy biện
này cho rằng một lí lẽ càng được lặp đi lặp lại nhiều chừng nào thì nó
sẽ được người ta chấp nhận là đúng. Do đó, người ngụy biện thường chỉ
lặp đi lặp lại những phát biểu, bất kể là quái dở thế nào, cho đến khi
người đối thoại mệt mỏi không còn muốn nghe nữa.
48. Lạm dụng
thiên nhiên. Đây là một ngụy biện rất thông thường trong giới chính trị
gia, mà trong đó họ tìm cái tương đồng giữa một kết luận nào đó và một
khía cạnh của thế giới tự nhiên, rồi từ đó phát biểu rằng kết luận đó là
không thể tránh khỏi. Chẳng hạn như “Đặc điểm của thế giới tự nhiên là
cạnh tranh; động vật đấu tranh chống nhau để làm chủ tài nguyên thiên
nhiên. Chủ nghĩa tư bản, một hình thức cạnh tranh để làm chủ tư liệu,
chỉ đơn giản là một phần của con người sống trong thế giới tự nhiên. Đó
cũng là cách mà thế giới tự nhiên vận hành.”
Một hình thức khác
của lạm dụng thiên nhiên là lí luận cho rằng bởi vì con người là sản
phẩm của thế giới tự nhiên, chúng ta phải bặ bắt chước hành động theo
những gì chúng ta thấy trong thế giới tự nhiên, và làm khác đi là “phi
tự nhiên”. Ví dụ: “Đồng tính luyến ái dĩ nhiên là không tự nhiên. Có khi
nào anh thấy hai thú vật cùng giới tính giao phối với nhau không?”
49.
Ngụy biện “Tu quoque”. Đây là một trong những ngụy biện rất phổ biến.
Nó dựa vào lí lẽ rằng một hành động có thể chấp nhận được bởi vì người
đối nghịch đã làm. Chẳng hạn như “Anh là một người lừa dối.” “Rồi sao?
Anh cũng là một tay lừa dối vậy.”
50. Lạm dụng thống kê. Thống kê
thường được giới ngụy biện sử dụng tối đa, vì theo họ thống kê có thể
dùng để “chứng minh” bất cứ điều gì. Người ta có thể vặn vẹo hai con số 1
và 3 điểm để sản xuất những phát biểu như “khác nhau 2 điểm”, “cao gấp 3
lần”, hay “tăng 200%”; người ta có thể dựa vào ý kiến đồng tình của 4
người trong 5 người để cho là “80% người được thăm dò”, hay thậm chí “đa
số cộng đồng” đồng ý với một luận điểm nào đó. Tức là những khái quát
hoá một cách vội vã, hay dựa vào một mẫu số cực kỳ thấp, thấp đến độ nó
không có nghĩa lí gì. Thực ra, thống kê không chứng minh điều gì cả.
Thống kê chỉ là một phương tiện hay thuật toán dùng để loại bỏ những
trường hợp khả dĩ hay không khả dĩ. Vì có quá nhiều ngụy biện thống kê,
nên vấn đề này sẽ được bàn tiếp trong một dịp khác. Tuy nhiên, những ai
thích tìm hiểu vấn đề ngụy biện thống kê có thể tìm đọc cuốn sách rất
nổi tiếng của Darrell Huff, có tựa đề là “How to lie with statistics”
(tạm dịch: “Làm thế nào để lừa dối bằng thống kê”).
***
Có thể
nói những loại ngụy biện trên đây có những đặc điểm chung là (a) phát
biểu không dựa vào lí lẽ logic; (b) các định đề không vững để đi đến một
kết luận; và (c) đưa ra giả định không đúng. Ngụy biện, do đó, nói cho
cùng, là một sản phẩm của sự lười suy nghĩ. Và hầu như trong chúng ta,
ai cũng có ít nhất là một lần lười suy nghĩ. Do đó, nếu điểm qua những
loại ngụy biện trên đây, chúng ta tự cảm nhận rằng trong quá khứ mình
chắc cũng có lần phạm vào lỗi lầm của ngụy biện. Điều này có thể đúng,
và không nên lấy làm ngạc nhiên, vì các nhà thông thái, và ngay cả giới
có huấn luyện về logic học cũng đôi khi, vì cố ý hay vô tình, ngụy biện.
Giới chính trị gia và truyền thông là những người cực kỳ nổi tiếng về
ngụy biện.
Nhưng tại sao những ngụy biện vẫn còn có mặt trên báo
chí? Theo tôi, bởi vì chúng vẫn có khách hàng. Vẫn có người, dù ít hay
nhiều, tin tưởng vào ngụy biện, vì nó thuận nhĩ, trơn tru, và nhất là
không thách thức. Sờ một hòn đá trơn tru đem lại cho chúng ta một cảm
giác khoan khoái dễ chịu hơn là sờ một hòn đá lởm chởm, hay ngồi trên
một cái ghế ghồ ghề. Người ta thích sự trơn tru, bởi vì trơn tru là dấu
hiệu của sự khoan khoái, dễ chịu, là cái khoảng thời gian giải lao,
không cần sự thách thức.
Có lẽ, ở một khía cạnh nào đó, điều này
cũng không đến nỗi tệ, bởi vì những ngụy biện phản ánh sự thành công
[hay có người nói sự phong phú] của ngôn ngữ trong việc tách rời giữa
những gì thô thiển, gồ ghề với những gì hoàn thiện, mĩ miều. Nhưng sự
trơn tru của các vật thể và ngôn ngữ ngày nay đem lại cho chúng ta một
cảm giác giả tạo về thế giới thực của các vật thể. Những kỳ kẹt xe trên
đường xá mới để lộ trái tim phức tạp của một thành phố. Tương tự, một sự
cố của internet sẽ nhắc nhở chúng ta về tình trạng hỗn mang và phức tạp
của hệ thống thông tin điện tử. Sự hỗn mang và phức tạp là thực. Trơn
tru, tròn trĩnh có thể là giả tạo. Những câu văn ngụy biện có thể chỉ là
những lời phát biểu lém lỉnh thay vì lịch thiệp, hàm chứa mánh khóe
thay vì thân thiện. Có thể nói, ngụy biện là những lối sáo ngữ liến
thoắng nhằm vào mục đích lôi cuốn người nghe/đọc, thay vì cung cấp cho
họ một sự thực.
Bởi vì ngụy biện là những lí lẽ mà bề ngoài có vẻ
logic, nên chúng có khả năng thuyết phục những người không chịu khó suy
nghĩ, nhất là những người còn mang nặng cảm tính. Điều này giải thích
tại sao nhiều người trong chúng ta tiếp nhận một cách thụ động quá nhiều
những điều càn rỡ về thế giới chung quanh, kể cả những niềm tin tôn
giáo, những mê tín dị đoan, những triết lí quái đảng, những thông tin
sai lạc, v.v.. Cái tác hại của việc tiếp nhận thụ động này là nó làm cho
chúng ta trở nên nô lệ với cảm tính, và dễ dàng trở thành những tín đồ
cuồng tín của những người “lãnh đạo” chính trị hay tôn giáo.
Để
không trở thành những nô lệ, chúng ta cần phải suy nghĩ nghiêm túc. Suy
nghĩ nghiêm túc là một quá trình hoạt động tri thức nhằm ý niệm hóa, ứng
dụng, phân tích, tổng hợp, và (hay) đánh giá những thông tin được thu
thập từ quan sát, kinh nghiệm, phản ánh, lí luận, hay liên lạc, như là
một niềm tin cho hành động. Chúng ta cần phải dựa vào những giá trị tri
thức với những đặc điểm như trong sáng, chính xác, nhất quán, có liên
hệ, bằng chứng tốt, lí lẽ hợp lí, có chiều sâu, và công bình. Tức là,
trước một câu phát biểu hay một đề nghị, chúng ta phải thẩm định lại kết
cấu và nguyên tố của phát biểu hay đề nghị đó. Những kết cấu và nguyên
tố này là: mục đích, vấn đề, giả định, quan niệm, bối cảnh, kết luận,
ngụ ý, hậu quả, phạm vi tham khảo, và quan điểm khác.
Người Việt
chúng ta thường rất tự hào về những đối thoại [mà chúng ta cho là “thông
minh”] giữa Trạng Quỳnh và Chúa Trịnh ngày xưa. Nhưng nói một cách công
bằng và theo tiêu chuẩn của lí luận logic, thì những trao đổi của Trạng
Quỳnh hay tương tự chỉ là những ngụy biện ở trình độ thô sơ nhất [*].
Nhưng có điều đáng buồn là những đối thoại kiểu Trạng Quỳnh, mà trong đó
sự hơn thua nhau từng câu nói, bắt bẽ nhau từng chữ, vặn vẹo ý nghĩa
của từng câu văn, v.v… lại đi vào sử sách, như thể để làm gương cho thế
hệ sau này. Mà làm gương thật. Cho đến ngày nay, có người vẫn còn cho đó
là một biểu tượng của sự thâm thúy, thông minh của dân tộc, là phản ánh
sự phong phú của ngôn ngữ Việt, và đem ra ứng dụng trong tranh luận.
Theo
dõi báo chí, chúng ta thấy những hình thức tấn công cá nhân (thay vì
tấn công vào luận điểm), xuyên tạc ý tưởng, chụp mũ, suy luận theo cảm
tính, mỉa mai, đơn giản hóa vấn đề, v.v… xuất hiện hầu như hàng ngày, có
khi hàng giờ. Vì những tần số của những loại ngụy biện xuất hiện quá
nhiều như thế, nó thành một sự rập khuôn. Theo thời gian, rập khuôn trở
thành “truyền thống”. Hậu quả của cái truyền thống này là những ai ra
ngoài cái khuôn sáo của ngụy biện đều có thể bị xem là phi chính thống,
dẫn đến một lối suy nghĩ và phán xét kì quặc kiểu “anh/chị không thuộc
nhóm của tôi, vậy thì anh/chị thuộc nhóm bên kia,” “anh khen Việt Nam,
vậy anh là cộng sản,” “giọng nói anh ‘Bắc kì 75’, vậy anh là cộng sản,”
hay “Nhà nước cho anh ra ngoài này trình diễn, chắc anh là cộng sản đi
tuyên truyền”… Anh ở phía này, tôi bên kia. Nói tóm lại, đó là một lối
phân định theo hai giá trị: xấu và tốt, đen và trắng, hay địch và ta một
cách cứng nhắc. Cách phân định này thể hiện một sự nghèo nàn về trí
tuệ, hay lười biếng suy nghĩ. Chỉ cần đặt vấn đề ngược lại một chút, hay
phát triển vấn đề xa hơn một chút, ai cũng có thể thấy lối phân chia
có/không này không thể đem đến một đáp số cho một vấn đề nào cả.
Trong
cái sự thực phức tạp, mờ mờ ảo ảo của vấn đề, có cái đẹp riêng. Không
phải cái đẹp trơn tru, tròn trĩnh, nhưng là cái đẹp khắt khe của sự
thật. Tương tự, một lời phát biểu nghịch lí có cái đẹp của nó, vì nó có
thể đánh thức chúng ta về một thế giới phức tạp, một thế giới không nằm
gọn trong đúng/sai, tốt/xấu, bạn/thù. Có lẽ đã đến lúc chúng ta nên vượt
qua chính mình bằng cách cho các tế bào trí tuệ có cơ hội làm việc.
—————————-
Chú thích:
[*]
Đơn cử về câu chuyện “Mèo chúa, mèo dân”, chuyện kể như sau: Chúa Trịnh
có một con mèo mà Chúa rất đỗi yêu quí. Mỗi bữa ăn của mèo Chúa đều cho
mèo ăn cơm thịt cá. Muốn chơi khăm Chúa, Quỳnh bèn bắt trộm con mèo của
Chúa đem về nhà mình. Đến bữa ăn, Quỳnh đem ra hai đĩa thức ăn, một đĩa
cơm rau, một đĩa cơm thịt, và Quỳnh cầm chiếc roi chờ đấy. Do quen ăn
thịt cá nên con mèo của Chúa chạy ngay sang đĩa thức ăn quen thuộc của
mình. Mỗi lần như vậy thì Quỳnh dùng roi quất cho con mèo rõ đau. Chừng
vài lần thì con mèo thôi không dám bén mảng đến đĩa cơm thịt nữa, đói
quá rồi cũng ăn cơm rau ngon lãnh. Tin Quỳnh ăn cắp mèo rồi cũng đến tai
Chúa. Chúa sai Quỳnh đến hỏi cho ra cớ sự. Quỳnh lí lẽ: Mèo của chúa là
mèo cao sang đài các, nên bữa ăn cũng sang trọng; còn tôi nhà nghèo,
nên mèo tôi cũng chỉ ăn cơm rau. Bây giờ nếu Chúa bảo tôi đánh cắp mèo
của Chúa, hãy thử đem ra đây hai đĩa thức ăn, một đĩa có thịt một đĩa
chỉ cơm rau. Nếu mèo ăn cơm thịt là mèo của chúa, mà nếu nó ăn cơm rau
thì là mèo của tôi”. Chúa ưng thuận bèn sai y truyền. Con mèo của Chúa
vẫn theo bản năng của mình, nhưng khi thấy Quỳnh nhấp nhấp cái roi, nó
sợ quá, bèn bước qua đĩa cơm rau ăn ngon lành. Quỳnh mới vỗ tay reo lên
:”Đấy mèo của Chúa thì phải ăn thịt cá, còn mèo dân của tôi chỉ ăn cơm
rau, thì rõ là mèo của tôi chứ tôi có đánh cắp mèo của Chúa bao giờ!”.
Nói rồi Quỳnh đắc thắng ôm con mèo của Chúa đi thẳng, để mặc cho Chúa
tức giận, biết bị Quỳnh chơi khăm mà không làm gì được.
Ở đây lí luận của Trạng Quỳnh phạm phải lối nguỵ biện “loại bỏ tiền đề” như đã nêu ở trên.
Theo: Ykhoanet.com
Cám ơn anh MĐ rất, rất, rất là nhiều. Bài khá dài nhưng rất nên đọc. Ban đầu mình thấy dài quá chỉ đọc lướt qua để còn đọc tin PU, NK nhưng càng lướt càng phát hiện không nên lướt. Mình sẽ phải đọc lại.
ReplyDeleteHy vọng các thành viên T.Đ. và T.Đ sẽ rút ra được rất nhiều bài học hay về tranh luận!
Thanks again!
Thx anh MD! bai viet hay! nhung con phai tuy theo "khi nong" cua nhung nguoi dang tranh luan , lieu co lam chu duoc minh hay khong?
ReplyDelete